Dân số Việt Nam đứng thứ mấy thế giới? Mật độ dân cư như thế nào?

Tổng dân số Việt Nam hiên nay là bao nhiêu? Dân số Việt Nam đứng thứ mấy thế giới? Đây là những câu hỏi được nhiều độc giả quan tâm, đặc biệt là với ngày Dân số Thế giới sắp diễn ra. Trong bài viết hôm nay, hãy cùng chúng tôi tìm hiểu và phân tích tình hình dân số Việt Nam nhé!

Dân số Việt Nam là bao nhiêu, xếp thứ mấy thế giới?

Dân số Việt Nam dự kiến ​​sẽ tăng 784.706 người vào năm 2022, đạt 99.329.145 người vào đầu năm 2023. Gia tăng dân số tự nhiên dự kiến ​​đạt 879.634 người vì số người sinh nhiều hơn số người chết. Nếu tình trạng nhập cư vẫn ở mức độ như năm ngoái, dân số sẽ giảm 94,928 người.

Dân số Việt Nam là bao nhiêu, xếp thứ mấy thế giới?
Dân số Việt Nam là bao nhiêu, xếp thứ mấy thế giới?

Điều này có nghĩa là số người chuyển đến Việt Nam để định cư sẽ ít hơn số người rời khỏi đất nước để định cư. Theo ước tính của chúng tôi, tỷ lệ thay đổi dân số hàng ngày của Việt Nam vào năm 2022 như sau:

Trung bình có 4.175 trẻ được sinh ra mỗi ngày.

Trung bình có 1.765 người chết mỗi ngày

Trung bình có 260 lượt nhập cư hàng ngày.

Trong năm 2022, dân số Việt Nam sẽ tăng trung bình 2.150 người/ngày.

Dân số Việt Nam hiện chiếm 1,25% dân số thế giới. Vậy dân số Việt Nam đứng thứ mấy thế giới? Việt Nam đứng thứ 15 so với thế giới về tổng dân số. Mật độ dân số của Việt Nam hiện nay là 317 người trên một km vuông và tổng diện tích đất là 310.060 km vuông. Trong đó, khoảng 37,34% dân số sống ở thành thị. Độ tuổi trung bình của người Việt Nam hiện nay là khoảng 32,9 tuổi.

Mật độ dân số Việt Nam đứng thứ mấy khu vực?

Không chỉ tìm hiểu dân số Việt Nam đứng thứ mấy thế giới, trong bài viết này hãy cùng chúng tôi tìm hiểu mật bộ phân bố dân số Việt Nam ra sao nhé!

Tính đến ngày 13 tháng 1 năm 2022, mật độ dân số của Việt Nam là 318 người trên một km vuông. Mật độ dân số được tính bằng cách lấy dân số Việt Nam chia cho tổng diện tích đất của cả nước. Tổng diện tích là tổng diện tích đất và nước trong đường biên giới và bờ biển quốc tế của Việt Nam. Theo Tổng cục Thống kê Liên hợp quốc, Việt Nam có tổng diện tích đất liền là 310.060 km vuông.

Việt Nam là quốc gia có mật độ dân số cao thứ ba ở Đông Nam Á, sau Philippines (363 người/km²) và Singapore (8.292 người/km²). Đồng bằng sông Hồng và Đông Nam Bộ là hai vùng có mật độ dân số cao nhất cả nước, lần lượt là 1060 người/km2 và 757người/km2.

Các vùng này bao gồm hai vùng đông dân nhất cả nước là Hà Nội thuộc vùng Đồng bằng sông Hồng với mật độ dân số là 2.398 người/km2, và thành phố Hồ Chí Minh thuộc vùng Đông Nam Bộ với mật độ dân số là 4.363 người/km2. Miền núi Bắc Trung Bộ và Tây Nguyên là hai vùng có mật độ dân số thấp nhất, lần lượt là 132 người/km2 và 107 người/km2. Thành phố Hồ Chí Minh có mật độ dân số cao nhất, gấp gần 86 lần so với nơi có mật độ dân số thấp nhất cả nước là tỉnh Lai Châu (với mật độ 51 người/km2).

Dân cư có sự phân bố không đồng đều giữa các vùng

Theo điều tra dân số năm 2019, dân số thành thị là 33.122.548 người, chiếm 34,4% tổng dân số cả nước; dân số nông thôn là 63.086.436 người, chiếm 65,6%. Tốc độ tăng dân số bình quân của 5 khu vực thành thị giai đoạn 2009 – 2019 là 2,64%/năm, gấp 6 lần tốc độ tăng dân số nông thôn bình quân của năm đó, nhưng vẫn thấp hơn tốc độ tăng của 3 năm 4%/năm cho giai đoạn 1999-2009. 

Tỷ lệ dân số ở các khu vực thành thị của Việt Nam đã tăng lên, nhưng vẫn ở mức thấp so với phần còn lại của Đông Nam Á, chỉ cao hơn Đông Timor (31%), Myanmar (29%) và Campuchia (23%).

Dân cư phân bố không đồng đều giữa các vùng, các khu vực.
Dân cư phân bố không đồng đều giữa các vùng, các khu vực.

Dân số Việt Nam phân bố không đồng đều giữa các vùng miền, giữa các vùng kinh tế – xã hội, trong đó Đồng bằng sông Hồng là vùng đông dân nhất cả nước với 22,5 triệu người, chiếm 23,4% tổng dân số. Tiếp theo là Bắc Trung Bộ và Duyên hải miền Trung, với 20,2 triệu người, chiếm 21,0%. Tây Nguyên có dân số nhỏ nhất với 5,8 triệu người, chiếm 6,1% dân số cả nước.

Từ năm 2009 đến 2019, Đông Nam Bộ có tốc độ tăng dân số bình quân cao nhất cả nước (2,37%/năm), là trung tâm kinh tế năng động, thu hút nhiều người nhập cư đến làm việc, sinh sống và học tập; Đồng bằng sông Cửu Long có tốc độ tăng dân số bình quân thấp nhất (0,05%/năm).

Kết quả tổng điều tra năm 2019 cho thấy dân số chính của mỗi tỉnh trong cả nước là 1-2 triệu người (35 tỉnh), tiếp theo là các tỉnh có dân số nhỏ hơn, dưới 1 triệu người (21 tỉnh) và các tỉnh có dân số trên 2 triệu (7 tỉnh). Hà Nội và Thành phố Hồ Chí Minh là hai thành phố đông dân nhất cả nước (lần lượt là 8.053.663 và 8.993.082 người) với khoảng cách dân số giữa các vùng đông dân nhất cả nước (Thành phố Hồ Chí Minh) và nơi ít dân nhất của đất nước (tỉnh Bắc Cạn) có diện tích lớn hơn 28 lần.

Sự phân bố dân cư không đồng đều ở các nơi chủ yếu là do thuận lợi của một số nơi về kinh tế, văn hóa, điều kiện xã hội, việc làm, giáo dục, y tế và các điều kiện khác hơn nơi khác, nên di cư đến nơi khác thích hợp hơn cho cuộc sống. Đây cũng là một trong những nguyên nhân khiến khoảng cách gia tăng dân số ở một số vùng ngày càng lớn. Điều này xảy ra ngay cả ở các tỉnh đông dân, nơi mà tỷ lệ sinh đã ở dưới mức thay thế trong nhiều thập kỷ.

Việt Nam trong giai đoạn cơ cấu dân số vàng

Kết quả tổng điều tra năm 2019 cho thấy, tỷ trọng dân số 15-64 tuổi là 68,0% (giảm 1,1% so với năm 2009), tỷ trọng dân số dưới 15 tuổi và dân số từ 65 tuổi trở lên là Lần thứ ba là 24,3% và 7,7%. Kết quả là, Việt Nam đang ở trong thời kỳ dân số vàng.

Việt Nam đang trong giai đoạn cơ cấu dân số vàng.
Việt Nam đang trong giai đoạn cơ cấu dân số vàng.

Dự kiến ​​đến khoảng năm 2040, Việt Nam sẽ kết thúc thời kỳ dân số vàng. Trong khi thời kỳ dân số vàng tạo ra nhiều thuận lợi và thuận lợi, nó cũng kéo theo nhiều khó khăn, thách thức cần phải giải quyết.

Bên cạnh các vấn đề về nâng cao trình độ tay nghề của người lao động và nâng cao chất lượng nguồn nhân lực đáp ứng nhu cầu của thị trường lao động, nhất là trong bối cảnh cuộc cách mạng công nghệ 4.0, áp lực cung cầu kết nối thị trường ngày càng giảm tình trạng thiếu việc làm, trật tự an toàn xã hội cần tiếp tục được quan tâm.

Nhóm 45-49 tuổi có sự cân bằng giới tính

Ngoài câu hỏi dân số Việt Nam đứng thứ mấy thế giới rất nhiều bạn đọc còn muốn tìm hiểu về các độ tuổi của dân số Việt Nam.

Theo điều tra dân số năm 2019, tỷ số giới tính của dân số Việt Nam là 99,1 nam so với 100 nữ. Trong đó, tỷ số giới tính của khu vực thành thị là 96,5 nam/100 nữ và của khu vực nông thôn là 100,4 nam/100 nữ. Tỷ số giới tính của dân số Việt Nam đang tăng lên nhưng vẫn ở mức dưới 100 kể từ cuộc tổng điều tra dân số năm 1979.

Tỷ số giới tính thay đổi theo nhóm tuổi, càng lớn tuổi tỷ số giới tính càng giảm xuống, cao nhất ở nhóm từ 0 đến 4 tuổi (110,3 nam/100 nữ) và thấp nhất ở nhóm có độ tuổi 80 trở lên (48,6 nam/100 nữ). Tỷ số giới tính gần như bằng nhau ở nhóm tuổi 45-49 (100,2 nam/100 nữ), trong khi bắt đầu giảm xuống dưới 100 ở nhóm 50-54 (95,9 nam/100 nữ).

Kết quả điều tra dân số năm 2019 cũng cho thấy sự khác biệt đáng kể về tỷ số giới tính giữa các vùng. Bắc Trung Bộ và miền núi, Tây Nguyên là hai vùng có tỷ số giới tính cao nhất, lần lượt là 100,9 nam/100 nữ và 101,7 nam/100 nữ; trong khi đó, Đông Nam Bộ có tỷ số giới tính thấp nhất là 97,8 nam/100 nữ.

==>> Xem thêm:

Độ tuổi già hóa dân số tại Việt Nam

Ở Việt Nam, do thay đổi cơ cấu dân số, tỷ trọng trẻ em dưới 15 tuổi giảm, tỷ trọng dân số 60 tuổi trở lên tăng, chỉ số già hóa có xu hướng gia tăng và đã tăng lên. tăng nhanh trong vòng 10 năm qua trong vòng 10 năm: chỉ số già hóa năm 2019 là 48,8%, cao hơn năm 2009, tăng 13,3 điểm phần trăm, cao hơn gấp đôi so với năm 1999. Chỉ số già hóa thể hiện xu hướng liên tục và sẽ tiếp tục tăng trong vài năm tới.

Đồng bằng sông Cửu Long và đồng bằng sông Hồng là hai vùng có chỉ số già hóa cao nhất cả nước (lần lượt là 58,5% và 57,4%). So với các vùng còn lại của cả nước, Tây Nguyên có chỉ số già hóa thấp nhất (28,1%).

Độ tuổi già hóa dân số tại Việt Nam.
Độ tuổi già hóa dân số tại Việt Nam.

Già hóa dân số đang trở thành một trong những vấn đề rất được quan tâm không chỉ ở Việt Nam cả các nước khác trên thế giới. Già hóa dân số sẽ ảnh hưởng rất nhiều đến các lĩnh vực của đời sống xã hội, bao gồm: thị trường lao động, tài chính, nhu cầu hàng hóa và dịch vụ, giáo dục, an sinh xã hội, y tế.

Kết quả tổng điều tra năm 2019 cũng cho thấy, trong 10 năm qua, tỷ số phụ thuộc chung của nước tôi đã tăng 2,4% chủ yếu do dân số từ 65 tuổi trở lên tăng.

Vì vậy, nước ta tuy vẫn là nước có thu nhập thấp và trung bình nhưng tốc độ già hóa diễn ra rất nhanh, vấn đề già hóa đang đặt ra cho Việt Nam nhiều thách thức. Vì vậy, cần có chính sách đảm bảo thích ứng với tình trạng dân số già. Cần cải thiện hệ thống chăm sóc y tế, an sinh xã hội cho người cao tuổi, chính sách lao động cho người cao tuổi vẫn tham gia hoạt động kinh tế có lợi cho việc giải quyết các vấn đề xã hội, nâng cao đời sống, thúc đẩy sản xuất hàng hóa và dịch vụ, sản xuất.

Vậy là thắc mắc dân số Việt Nam đứng thứ mấy thế giới của nhiều đọc giả đã được giải đáp, hy vọng với những thông tin thú vị trong bài viết này quý vị sẽ có thêm nhiều thông tin về tình hình dân số ở nước ta. Hẹn gặp lại các bạn tại những bài viết tới.